Ở bất kỳ quốc gia nào, kể cả những nước có thị trường phát triển, doanh nghiệp Nhà nước (DNNN) luôn giữ vai trò quan trọng trong bảo đảm ổn định kinh tế vĩ mô, an sinh xã hội và dẫn dắt các khu vực kinh tế khác. Tại Việt Nam, doanh nghiệp Nhà nước được xác định là một trong những thành tựu lớn của kinh tế nhà nước, song kết quả hoạt động vẫn chưa tương xứng với nguồn lực.
Tại Diễn đàn "Doanh nghiệp Nhà nước nâng cao năng lực cạnh tranh và vai trò dẫn dắt" do VOV tổ chức sáng 20/11, bà Nguyễn Thu Thủy - Phó Cục trưởng, Cục Phát triển doanh nghiệp Nhà nước, Bộ Tài chính cho biết quan điểm, chủ trương của Đảng đối với DNNN đã thay đổi qua các thời kỳ, gắn với tiến trình đổi mới, hội nhập.
Theo bà Thủy, đến nay cả nước có 866 doanh nghiệp có vốn Nhà nước. DNNN đóng góp khoảng 12,5% GDP và 27-30% tổng thu ngân sách (không kể dầu thô), tiếp tục giữ vai trò dẫn dắt trong các lĩnh vực chiến lược như năng lượng, hạ tầng, viễn thông, logistic, an ninh - quốc phòng.
Phân nhóm theo tỷ lệ vốn Nhà nước nắm giữ, gồm: 500 doanh nghiệp do Nhà nước nắm giữ 100% vốn điều lệ (151 doanh nghiệp thuộc 13 Bộ, ngành và 349 doanh nghiệp thuộc 34 địa phương); 203 doanh nghiệp do Nhà nước nắm giữ trên 50% vốn điều lệ đến dưới 100% vốn điều lệ (36 doanh nghiệp thuộc 10 Bộ, ngành và 167 doanh nghiệp thuộc 32 địa phương); 163 doanh nghiệp do Nhà nước nắm giữ từ 50% vốn điều lệ trở xuống (27 doanh nghiệp thuộc 09 Bộ, ngành và 136 doanh nghiệp thuộc 32 địa phương).
Về kết quả hoạt động, tính đến cuối năm 2024, các doanh nghiệp có vốn nhà nước (không tính 4 ngân hàng thương mại nhà nước) đang quản lý tổng tài sản có giá trị trên 4,3 triệu tỷ đồng, tổng vốn chủ sở hữu là trên 1,9 triệu tỷ đồng, đóng góp cho ngân sách nhà nước trên 400 ngàn tỷ đồng/năm.
Quy mô tổng tài sản và vốn chủ sở hữu của DNNN hiện thấp hơn so với khu vực doanh nghiệp ngoài Nhà nước (giai đoạn 2017–2023 chỉ chiếm khoảng 22,6% tổng tài sản và 15,2% tổng nguồn vốn của toàn bộ doanh nghiệp). Tuy nhiên, khu vực này lại đóng góp bình quân 34,2% tổng thu ngân sách nhà nước. Điều đó cho thấy, DNNN vẫn giữ vai trò trụ cột của nền kinh tế.
Cũng theo bà Nguyễn Thu Thủy, khu vực DNNN đang đối mặt với nhiều hạn chế và thách thức. Đó là, vai trò của doanh nghiệp nhà nước trong dẫn dắt, tạo động lực cho doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế phát triển và thúc đẩy liên kết, hình thành chuỗi giá trị gia tăng còn hạn chế.
Nguồn lực về vốn, tài sản của doanh nghiệp nhà nước chưa được khơi thông do quy định về phân công, phân cấp thẩm quyền quyết định đầu tư chưa trao quyền tự chủ cho doanh nghiệp đối với các quyết định đầu tư lớn, các quyết định mang tính rủi ro. Đặc biệt, tính chủ động, cạnh tranh trong hoạt động sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp nhà nước còn hạn chế. Thủ tục ra quyết định của khu vực doanh nghiệp này còn phức tạp dẫn đến mất cơ hội đầu tư, kinh doanh.
Mặt khác, hoạt động đầu tư của doanh nghiệp nhà nước chủ yếu vẫn mang tính đơn lẻ, chưa có sự phối hợp, liên kết, tận dụng thế mạnh trong các lĩnh vực, chưa tham gia sâu, rộng hội nhập kinh tế quốc tế, chưa chủ động tiên phong trong việc hình thành chuỗi giá trị trong nước và quốc tế.
Bên cạnh đó, công tác đổi mới quản trị doanh nghiệp còn chậm, chưa tiệm cận với các nguyên tắc và thông lệ quốc tế. Số lượng doanh nghiệp nhà nước ứng dụng quản trị trên nền tảng số, thực hiện quản trị doanh nghiệp tiệm cận với các nguyên tắc quản trị của Tổ chức Hợp tác và Phát triển Kinh tế (OECD) còn hạn chế.
Đồng quan điểm, ông Nguyễn Tất Thái, Phó Vụ trưởng Vụ Dự báo, Thống kê- Ổn định tiền tệ, tài chính (Ngân hàng Nhà nước) cho rằng, kinh tế nhà nước đóng góp hơn 29% GDP, song khu vực DNNN vẫn đang đối mặt với nhiều khó khăn. Mức nợ và hệ số nợ phải trả/vốn chủ sở hữu tại nhiều DNNN còn cao; việc bổ sung vốn cho DNNN nói chung gặp nhiều vướng mắc, đặc biệt là đối với các ngân hàng thương mại Nhà nước.
Tiến sĩ Vũ Văn Ngọc, Viện trưởng Viện Đào tạo tiên tiến, chất lượng cao và POHE (Đại học Kinh tế quốc dân) nhìn nhận, hạn chế lớn nhất trong mô hình quản trị DNNN hiện nay là cơ chế chủ sở hữu Nhà nước còn phân tán, khi nhiều cơ quan cùng thực hiện chức năng đại diện chủ sở hữu.
"Áp lực từ hội nhập quốc tế, cạnh tranh thị trường và yêu cầu minh bạch đang buộc DNNN phải chuyển đổi mạnh mẽ. Vì vậy, cần tập trung quyền đại diện chủ sở hữu về một đầu mối chuyên nghiệp; áp dụng các chuẩn mực quản trị doanh nghiệp theo OECD; minh bạch hóa toàn bộ hoạt động”, chuyên gia này nhấn mạnh.
Đồng quan điểm, Tiến sĩ Lê Quang Thuận, Viện Chiến lược và chính sách kinh tế – tài chính (Bộ Tài chính) chia sẻ, để nâng cao năng lực cạnh tranh của DNNN, cần bảo đảm quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm và tính độc lập của hội đồng quản trị trong thực hiện chức năng, nhiệm vụ được giao.
Đồng quan điểm, Tiến sĩ Lê Quang Thuận, Viện Chiến lược và chính sách kinh tế - tài chính (Bộ Tài chính) đề xuất Việt Nam cần tăng cường tính tự chủ và trách nhiệm của đội đồng quản trị; minh bạch hóa mục tiêu đầu tư của Nhà nước tại từng doanh nghiệp; hài hòa lợi ích giữa Nhà nước, nhà đầu tư và các bên liên quan; đồng thời yêu cầu DNNN đi đầu trong chuyển đổi số, chuyển đổi xanh và trách nhiệm xã hội.
Để nâng cao năng lực cạnh, hoàn thành sứ mệnh lớn lao của mình, ông Đặng Huy Đông, Chủ tịch Viện Quy hoạch và Phát triển, cho rằng doanh nghiệp nhà nước cần một môi trường kinh doanh lành mạnh, khung khổ pháp lý minh bạch, dễ làm, dễ hiểu, không rủi ro công vụ.
Doanh nghiệp nhà nước phải được hoạt động theo cơ chế thị trường, lấy hiệu quả kinh tế làm tiêu chí đánh giá chủ yếu; tự chủ, tự chịu trách nhiệm; cạnh tranh bình đẳng với doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác theo quy định của pháp luật.
Trong khi đó, PGS.TS, chuyên gia kinh tế Ngô Trí Long nhấn mạnh cơ chế lương - thưởng đối với lãnh đạo DNNN. Ông đề xuất cần trả lương theo thị trường, thưởng theo giá trị tạo ra, phạt theo rủi ro gây ra. Lương - thưởng phải là công cụ quản trị, không phải phúc lợi. Nếu thực thi nghiêm túc, minh bạch, nhất quán, đây sẽ là “chìa khóa” để khơi thông động lực, nâng cao hiệu quả và củng cố niềm tin vào DNNN trong giai đoạn mới.